PGĐT- Hòa thượng thuộc dòng thiền Lâm Tế chánh tông đời thứ 41, pháp húy Nhật Chí, hiệu Thiện Thông, thế danh Hồ Tấn Phát, sinh năm Mậu Thìn (1927), tại làng Bình Thạnh Đông, huyện Lấp Vò, Long Xuyên, (nay Đồng Tháp). Thân phụ là cụ ông Hồ văn Nên (tự Nhiêu) pháp danh Hồng Thành, Hiền mẫu là cụ bà Lê Thị Kim pháp danh Diệu Ngọc, Ngài là con cả trong gia đình, có bảy người anh em (4 trai, 3 gái) song thân là Phật tử thuần thành kính tin Tam Bảo, gia đình trung lưu trí thức.
Ảnh chụp Hòa thượng Thích Thiện Thông nhân ngày mừng thọ thứ 80 (năm 2007), cùng năm này Hòa thượng đã an nhiên viên tịch vào 28 tháng 2 |
Đất Bồ đề sẳn vun xới, vườn thiền thêm hoa Bát Nhã, tròn 10 tuổi xuân, Ngài được song thân đưa đến chùa Phước Ân, Rạch Cai Bường, xã vĩnh Thạnh, đảnh lễ lão Thiền sư Bửu Phước, cầu xin thế phát xuất gia, tâm nguyện hoàn thành khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Từ đây đầu tròn áo vuông, trở thành trang Thích tử và được Hòa thượng Bổn sư ban pháp danh Nhật Chí.
Vốn bản chất thông minh, hiếu học nên được sự thương yêu của Hòa thượng Bổn sư và các Sư huynh đi trước, được cặp sách đến trường học chữ, khi về chùa Ngài được học kinh luật chữ Hán Nôm và Đông Y cổ truyền, Quẻ dịch, Phong thủy Địa lý, để về sau làm phương tiện Phật hóa nhân gian. Ngài là một trong ba vị Thư ký Tổ đình Phước Ân cổ tự, nổi tiếng viết chữ đẹp, cho nên Ngài có tên thường gọi là thầy Ký Phát (Tổ đình Phước Ân là nơi đào tạo Hán Nôm, nhiều nhân tài viết văn hay chữ đẹp).
Năm Ất Dậu (1945), Cách Mạng tháng 8 thành công và sau đó thực dân Pháp tái chiếm xâm lăng, thì nhân dân Nam bộ đồng kháng chiến. Lúc bấy giờ phong trào Phật giáo cứu quốc đơm hoa kết trái, Hòa thượng Bổn sư cùng đồng chí hướng với Thiền sư Chí Thiền, Sắc tứ Tam Bảo Tự, Rạch Giá, Pháp sư Bửu Chung, rạch Ông Yên, Nha Mân . . . biến chùa thành cơ sở hoạt động, cung cấp quân lương cho chí sĩ yêu nước và hiến pháp khí bằng đồng, thau hóa thân vũ khí chống giặc ngoại xâm, tiêu biểu là Tổ đình Khải Phước Nguyên, xã Bình Thành, Lấp Vò đã hy sinh trong ngọn hỏa thiêu do tiêu thổ kháng chiến.
Noi theo truyền thống yêu nước thương dân của tiền nhân, Ngài cùng một vài huynh đệ thắp hương lễ Thầy Tổ, xin gởi áo Cà sa, tạm xếp chuông mõ lại chốn Thiền môn, theo tiếng gọi của hồn thiêng sông núi, cùng toàn dân tham gia kháng chiến, nhằm bảo vệ quê hương đất nước, làm tròn bổn phận của một công dân khi sơn hà nguy biến, Tổ quốc lâm nguy :
“Cởi áo cà sa khoác chiến bào,
Giã từ thiền viện lướt binh đao,
Câu kinh tiếng kệ chờ khi khác;
Cứu nước thương dân dễ đợi nào !”
Ngài cộng nghiệp với non sông đất nước, đồng lao cộng khổ cùng dân tộc suốt thời gian chiến tranh cho đến khi hòa bình độc lập.
Xuân năm Ất Mão (1975), sau khi miền Nam được giải phóng, thống nhất đất nước, Ngài trở về quê hương Đồng Tháp thân yêu, tiếp tục công tác xây dựng tại địa phương huyện Châu Thành.
Mùa Xuân năm Quý Hợi (1983), Ngài xin nghĩ việc, trở lại chùa xưa để tiếp nối hương lửa Từ bi, phúc trí trang nghiêm, ngõ hầu đền đáp ân nghĩa Thầy tổ, đã một thời dầy công dạy dỗ, và trọn ước nguyện chí nguyện xuất trần thuở ấu thơ.. . Vào mùa An Cư Kiết hạ năm này, Ngài được mời làm Thư ký Trường hạ tại Tổ đình Phước Ân :
Trần tâm nay đã giũ rồi;
Pháp duyên xuất thế phản hồi căn xưa.
Nơi đây, Ngài được Thiền Sư Thích Vĩnh Đạt cạo tóc, trao áo Cà sa, bình bát, ban pháp hiệu Thiện Thông, thọ liên đàn Cụ túc giới và truyền kệ phú pháp :
“Nhật chấn tông phong, đạo bổn nguyên,
Chí tâm đoạn nghiệp, tổ sư truyền,
Thiện năng tinh tấn hòa tăng lữ;
Thiện năng tinh tấn hòa tăng lữ;
Thông hiểu luật kinh ngộ phúc duyên”.
Vốn căn bản Phật pháp và thế pháp đã ôn luyện từ nhỏ, thừa khả năng gánh vác Phật sự, được chư tôn Thiền đức giáo phẩm Ban Trị sự tỉnh hội Phật giáo Đồng Tháp quý mến, Ngài được Tăng sai giữ chức vụ Thư ký Ban ĐDPG huyện Thạnh Hưng (Lấp Vò, Lai Vung sát nhập thành huyện Thạnh Hưng). Suốt hai nhiệm kỳ (1983-1993), Ngài vừa làm nhiệm vụ của một sứ giả Như Lai, Tăng sai việc Giáo hội, vừa nổ lực công phu tu tập. Tuy không còn tuổi thanh xuân, không khỏe mạnh như còn trẻ, nhưng với chí nguyện kiên cường, quyết trãi thân vì Phật pháp, tâm nguyện canh cánh bên lòng, câu kinh A Di Đà hôm nào Ngài tâm đắc:
“Bất khả dĩ thiểu thiện căn,
phúc đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc. . .”
Thiện căn phúc đức chưa tròn;
Mong chi đến được nước non Lạc thành.
Năm Mậu Thìn (1988), được sự tín nhiệm của chư tôn giáo phẩm Ban trị sự Phật giáo Đồng Tháp và Tông phong pháp phái, bổ nhiệm Ngài Trụ trì Tổ đình Thiên Phước Cổ Tự, Rạch Xẻo Tre, xã Hội An Đông, Lấp Vò, Đồng Tháp (nơi Thiền sư Minh Thông hiệu Hải Huệ dừng chân Trụ trì, một Cao Tăng thạc đức đã từng hợp tác với đồng môn huynh đệ là Thiền Sư Minh Huyên hiệu Pháp Tạng (Phật Thầy Tây An), Thiền sư Minh Hòa hiệu Hoan Hỷ, Thiền sư Minh Khiêm hiệu Hoằng Ân. . ., Những vị tiền bối đặt nền tảng cho phong trào Phật hóa Nông thôn và phong trào Phật giáo Cứu Quốc vùng Đồng bằng sông Cửu Long).
Từ một ngôi Cổ Tự rêu phong hoang phế, nơi miền quê hẻo lánh, trống trước vắng sau, tường mục, nóc dột, cột xiêu, chùa xưa chịu đựng với phong sương tuế nguyệt đã xuống cấp trầm trọng, Ngài dùng nhiều phương tiện thiện xảo, cảm hóa giới quan chức trí thức địa phương và nhân dân quanh vùng trở thành Hộ pháp, cùng nhau hợp tác trùng tu ngôi Cổ tự ngày thêm khang trang, Phạm Vũ trở nên huy hoàng:
Rực rỡ vườn thiền tươi sắc thắm;
Rạng ngời chùa tháp đẹp như xuân.
Năm Quý Dậu (1993), cơ sở vật chất, tiện nghi khá đầy đủ, Ngài khởi sự lo việc tiếp tăng độ chúng, khai Tịnh nghiệp đạo tràng An Cư Kiết Hạ, đón nhận tăng chúng khắp nơi về tu học.
Năm Đinh Sửu (1997) lần thứ hai, Ngài được giáo hội tin tưởng, tiếp tục Khai Tịnh nghiệp đạo tràng An Cư Kiết Hạ, trao giồi Tam vô lậu học tại Tổ đình Thiên Phước.
Năm Mậu Dần (1998), sau khi tham dự khóa tu nghiệp Trụ trì, chư tôn đức Ban Trị sự tỉnh hội PG Đồng Tháp kiến nghị Hội đồng Trị sự Trung ương GHPGVN suy tôn Ngài lên hàng Giáo phẩm Thượng tọa (đây là một trường hợp đặc cách cho những vị có công với Đạo pháp và Dân tộc, hiếm có của Tỉnh hội PG từ trước đến nay).
Năm Giáp Thân (2004), ngôi Vạn Linh Cổ Tự, xã Long Hưng, (cơ sở Cách mạng chống giặc ngoại xâm). Sau khi Thống nhất đất nước từ năm 1975, Chính quyền địa phương mượn làm cơ sở suốt thời gian dài và đã xuống cấp trầm trọng, Ngài đã thuyết phục quan chức địa phương trả lại ngôi Cổ tự để khôi phục Trùng tu, và sau đó bổ nhiệm đệ tử Thích Lệ Phú về Trụ trì cho đến nay.
năm Bính Tuất (2006) tuổi gần bát tuần, tự biết mình trụ thế không bao lâu, Ngài cố gắng khai Tịnh nghiệp đạo tràng An cư Kiết hạ, để lần cuối cùng với chư tôn đức Tăng già và Phật tử hoàn thành Phật sự, rồi từ giã trần gian Ta Bà, về An Dưỡng quốc.
Đầu Xuân Đinh Hợi (2007) mặc dù tứ đại bất an, nhưng Ngài vẫn không ngừng hoạt động Phật sự, Từ thiện xã hội. Với tâm nguyện nối nhịp Đạo Đời bằng tình người trong trái tim Từ bi, phải thực hiện chiếc cầu trước bến Chùa, thuận tiện giao thông, sông xán Cái Tàu Thượng, giúp bà con giữa hai đầu dòng sông xã Hội An Đông, Lấp Vò, Đồng Tháp, và xã Hội An, Chợ Mới, An Giang, cùng nhịp bước chân an lạc qua lại dễ dàng. Kết quả đó cũng được trọn vẹn khi một chiếc cầu gỗ hoàn thiện vững chắc :
“Cầu cây bắc nhịp đôi bờ,
Đạo Tâm nối kết ước mơ cho đời.
Bồ đề vui bước thảnh thơi,
Yêu thương góp lại sáng ngời Đạo thiêng”…
Cổ xe lâu năm cũng đến hồi xuống cấp, thời xuân trẻ cũng đến hồi già yếu, năm tháng ngày dài, mõi mòn với sức tàn hơi kiệt :
Bầu thuốc Thánh đâu cứu được người hết số;
Chén Linh đơn sao chữa được bệnh nan y.
Thuận thế vô thường, biết thân tứ đại đến lúc phải trả về cát bụi, Ngài di chúc đệ tử Thích Lệ Nhật kế thế Trụ trì và ban pháp hiệu, phú pháp truyền kệ :
Lệ đức cao thâm chon bổn nguyên,
Nhật quang chiếu diệu quảng tâm duyên,
Thiện năng chủng chấn chon thừa pháp;
Minh nghiệp tổ tông kế thế truyền.
Hóa duyên ký tất, Ngài an nhiên viên tịch vào giờ Mùi ngày 28 tháng 2 năm Đinh Hợi (Chủ nhật 15.4.2007)
Trụ thế: 80 Xuân
Giới lạp: 24 Hạ
Trụ trì: 20 Đông
Đệ tử xuất gia: 17 vị
Đệ tử quy thọ ngũ giới, Thập Thiện, Bồ Tát giới tại gia: hàng ngàn người.
Nhục thân Ngài an táng dưới chân Bảo tháp Tổ sư Minh Thông hiệu Hải Huệ, bên hông phải Bổn tự.
Đương thời Ngài được sự quý mến của chư tôn Giáo phẩm và giới quan chức trí thức địa phương tin tưởng kính trọng. Sự nghiệp cống hiến Đạo pháp Dân tộc, Ngài rất tâm đắc đôi câu liễn đối treo nơi Tổ đường Phước Hưng Cổ Tự :
Quốc gia hữu vĩnh sơn hà cố;
Phật đạo vô cùng nhật nguyệt trường.
(Nước nhà còn mãi non sông vững;
Đạo Phật không cùng ngày tháng bền.)
Thật vậy, Phật pháp bất ly thế gian Pháp, Đời và Đạo tuy hai mà một, tuy một mà hai, bởi Đạo chẳng lìa Đời, do vậy Đạo và Đời luôn gắn bó với nhau. Ngài đã xuất sắc hoàn thành tâm nguyện : "Ích nước Lợi dân, mình vì mọi người, với phương châm: “Sống tốt đời đẹp đạo – Nước vinh Đạo sáng”.
Hòa thượng Thích Thiện Thông, là một trong những vị Tăng sĩ tiêu biểu, trọn vẹn sự gắn bó hài hòa giữa đạo pháp và dân tộc. Một chuỗi đời hành đạo hy sinh, phục vụ vị tha vô ngã, một nhân cách lớn của Tăng sĩ Việt Nam, đã thắp sáng truyền thống yêu nước, Trí -Dũng bất khuất của lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Nam mô Thiên Phước đường thượng, Từ Lâm Tế chánh tông, tứ thập nhất thế, pháp húy Nhật Chí hiệu Thiện Thông, Hồ công Hòa thượng giác linh liên hoa tọa hạ.
Về mặt xã hội của Hòa thượng Thích Thiện Thông
- Nguyên Ủy viên Thường trực BTS tỉnh hội PG Đồng Tháp
- Chánh ĐDPG Lấp Vò (nhiệm kỳ 1993-2007)
- UVMTTQ huyện Lấp Vò
- Thư ký Ban ĐDPG huyện Thạnh Hưng (tên cũ LV) từ 1983-1993)
- Trụ trì Thiên Phước Cổ Tự