PGĐT - Thành phố Sa Đéc hiện có trên dưới 48 cơ sở thờ tự (đình, chùa, miếu, nhà thờ họ,…) và trong đó không ít những ngôi chùa, đình có niên đại trên 100 tuổi (chùa Phước Hưng xây dựng vào 1838 tính đến nay 177 năm, chùa Quảng Phước xây dựng vào 1858, tuổi thọ cũng gần 160 năm, đình Tân Quy Tây thờ vị thần hoàng khai khẩn đất đai Võ Ngọc Minh được xây dựng vào năm 1812, hơn 200 tuổi…).
Bài viết của chúng tôi tập trung giới thiệu 3 trong số quần thể di tích chùa, đình cổ ở đây với số lượng văn bản Hán Nôm vượt trội, cũng như lịch sử lâu đời: Chùa cổ Phước Hưng, chùa Bà Thiên Hậu của công đồng người Hoa và đình Vĩnh Phước.
Bài viết của chúng tôi tập trung giới thiệu 3 trong số quần thể di tích chùa, đình cổ ở đây với số lượng văn bản Hán Nôm vượt trội, cũng như lịch sử lâu đời: Chùa cổ Phước Hưng, chùa Bà Thiên Hậu của công đồng người Hoa và đình Vĩnh Phước.
1. Chùa Phước Hưng
Chùa Phước Hưng, hay còn gọi là chùa Hương được thành lập vào năm 1838 do công hỷ cúng đất đai và tài sản của phật tử Võ Thị Hữu và Đỗ Văn Sum, tọa lạc số 461 Hùng Vương, khóm 2, TP. Sa Đéc. Ban đầu chùa có diện tích 7238m2, cho đến hiện nay là 4241m2. Từ khi thành lập cho đến nay, chùa đã trải qua 6 đời trụ trì: Khai sơn là Hòa thượng Thích Minh Phước Tư Trung; Hòa thượng Như Diệu Quảng Đức; Hòa thượng Kiểu Ấn - Tâm Pháp, hiệu là Vạn Hiển, đây cũng là người có công đề xướng việc khắc những bản kinh gỗ); Hòa thượng Hồng Tỵ - Vĩnh Tràng, Hòa thượng Hồng Hạnh - Vĩnh Đạt, hiện tại là Hòa thượng Thích Thiện Huệ - Nhựt Thành.
Chùa cất theo lối kiến trúc chữ thập (Chánh điện, sau đó là giếng trời, hậu tổ thêm hai gian là Đông lan và Tây lan). Ngoài ra vườn chùa còn có 6 tháp cổ, 1 trong số đó là tháp của Thiên Hậu, số còn lại của tháp trụ trì các đời. Tính đến nay, chùa có 3 đợt trùng tu lớn, một là đợt năm 1882, hai là trùng tu nhà Tây vào năm 1969, và đợt còn lại là nhà Đông vào năm 1993. Tựu trung kiến trúc cổ của chánh điện vẫn không có thay đổi.
Hiện chùa có nhiều bản kinh khắc bằng gỗ, 16 hoành phi, 19 cặp câu đối, và đại đa số đều là những có niên đại cao. Chúng tôi chọn giới thiệu 9 cặp câu đối và 3 hoành phi có niên đại cao, đều được khắc trên gỗ
1.1. Câu đối: Đại đa số có ghi rõ năm tôn tạo và tín chủ cúng dường trên mỗi câu
1. Pháp nhãn đại quang minh diệt độ giả phi không phi sắc,
Kim thân thành mô phạm công đức tai vô lượng vô biên.
法眼大光明滅渡者非空非色
金身成模範功德哉無量無邊
Pháp nhãn (của Phật) sáng soi, diệt tận hết thảy sự vướng mắc, không có cái gọi là không, cũng không có thứ gọi là sắc.
Thân vàng (của Phật) trở thành hình mẫu, công đức (nơi ấy) ôi vô lượng, vô biên.
2. Nam khuyết độ hạ hải phi tẩm vạn thánh vạn linh cơ quyền vô thượng,
Tây phương biệt nhất càn tượng giáo tam thiên đại thiên thế giới đồng tôn.
(Long Phi Nhâm Ngọ Mạnh hạ Thượng hoán)
南闕渡下海飛伈萬聖萬靈機權無上
西方別一乾象教三千大千世界同尊
(龍飛壬午孟夏上浣)
Nơi cửa Nam[1], Phật độ cho kẻ trong biển khổ chẳng còn lo sợ, vô cùng linh ứng, cơ trí quyền mưu xứng ngôi Vô Thượng
Trời Tây[2] (của Phật) riêng là cõi lành để giáo hóa chúng sanh, trăm ngàn cõi nước mười phương đều ngưỡng vọng
(Thượng tuần tháng đầu hè, năm Nhâm Ngọ 1882)
3. Kinh thanh phạm kệ phức úc chiên đàn bát nhã cực lạc quốc thổ,
Bảo phiệt từ hàng đinh đông phan cái như lai chấn đán càn khôn.
(Long Phi Nhâm Ngọ Mạnh hạ Thượng hoán)
經聲梵偈馥郁栴檀般若極樂國土
寶筏慈航丁東幡蓋如來震旦乾坤
(龍飛壬午孟夏上浣)
Lời kinh tiếng kệ, trầm hương chiên đàn thơm ngát, đây đúng là cõi nước Cực Lạc,
Thuyền pháp từ bi, tràn phan bảo cái trang nghiêm, uy lực Như Lai chấn động trời đất.
(Thượng tuần tháng đầu hè, năm Nhâm Ngọ 1882)
4. Nghĩa khí trường tồn đại tai thánh công duy nhất,
(Quang Tự Ất Dậu niên tường nguyệt, cốc đán)
Trung tâm vĩnh quán cửu hĩ đế đức vô song
(Mộc ân Phúc Kiến Hà Chương Trần Quang Tán, Trần Hòa Thuận đồng kính thù.)
義氣長存大哉聖功唯一 (光緒乙酉年祥月穀旦)
忠心永貫久矣帝德無雙 (沐恩福建霞彰陳光讚、陳和順 同敬酬)
Nghĩa khí mãi trường tồn, lớn lao thay công lao thánh hiền là duy nhất
(Ngày lành tháng tốt năm Quang Tự[3], Ất Dậu 1885)
Lòng trung luôn nối tiếp, lâu xa thay đức ân của vua không ai bì kịp
(Cảm tạ ơn đức Trần Quang Tán và Trần Hòa Thuận của Hà Chương phủ, thuộc Phúc Kiến cúng dường)
5. Tứ thánh lục phàm do nhất tâm chi sở tạo,
(Vĩnh Liêm phủ Bình Trung tổng, Trung Tín thôn.)
Thập bàn pháp giới liệt vị báo chi vô sai
四聖六凡由一心之所造(永濂府平忠縂忠信村)
十般法界列位報之無差
Bốn quả thánh hiền, hay 6 nẻo phàm nhân[4], tất cả là do tâm này tạo.
(Thôn Trung Tín, tổng Bình Trung, phủ Vũng Liêm)
Pháp giới mười phương, nhân nào quả nấy chẳng hề sai
6. Vĩnh bảo thiền gia hưng vạn đại,
Đạt thành quế sở phúc thiên thu
永保禪家興萬代
達成桂所福千秋
Mãi bảo hộ cho chốn Thiền môn hưng thịnh ngàn đời,
Đạt chốn danh lam, phước đức kéo đến ngàn sau
7. Trung hiếu trì gia viễn
Thi thư xử thế trường
忠孝持家遠
詩書處世長
Lòng trung tâm hiếu giữ nền nhà,
Nghĩa lý Thi, Thư khiến cho được dài lâu
8. Mộ cổ thần chung sách tỉnh ái hà danh lợi khách,
(Long Phi Nhâm Ngọ Mạnh hạ Thượng hoán)
Kinh thanh Phật hiệu hoán hồi khổ hải mộng mê nhân
暮鼓晨鐘策醒愛河名利客
經聲佛號喚回苦海夢迷人
(龍飛壬午孟夏上浣)
Mõ sớm, chuông chiều cảnh tỉnh kẻ khách trong bể ái,
Tiếng kinh, hiệu Phật gọi về những người còn mê trong biển khổ
(Thượng tuần đầu tháng hè, năm Nhâm Ngọ 1882)
9. Quốc gia hữu vĩnh sơn hà cố,
(Vũng Liêm phủ, Bình Trung tổng, Trung Tín thôn)
Phật đạo vô cùng nhật nguyệt trường
國家有永山河固 (永濂府平忠縂忠信村)
佛道無窮日月長
Nước nhà lâu dài, vững bền cùng sông núi
(Thôn Trung Tín, tổng Bình Trung, phủ Vũng Liêm)
Đạo Phật vô cùng, trường tồn như nhật nguyệt.
1.2. Hoành phi
1. Phước Hưng Tự, Long Phi Nhâm Ngọ niên trọng đông thượng hoán.
福興寺,龍飛壬午年仲冬上浣
Chùa Phước Hưng, thượng tuần tháng giữa mùa đông, năm Nhâm Ngọ 1882
2. Lạc Hoa, Bính Ngọ niên thất nguyệt cát nhật
樂花, 丙午年七月吉日
Hoa lạc an (ở đây ví cho chùa), ngày lành tháng 7 năm Bính Ngọ 1846
3. Thạnh Hoa, Nội hội bản đạo đồng tạo tam phiến
盛花,内會本道同造三片
Hoa (ở đây ví cho chùa) đua sắc, Anh em trong hội cùng tạo 3 miếng[5]
2. Chùa Bà Thiên Hậu
Chùa thờ Bà Thiên Hậu, một vị thần trong tín ngưỡng của cộng đồng người Hoa, tọa lạc số 143 Trần Hưng Đạo, phường 1, TP. Sa Đéc. Do người Hoa của 7 phủ trong khu vực (Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam, …) tín ngưỡng mà lập nên vào năm 1820. Lúc mới thành lập chỉ là một ngôi chùa nhỏ, không kiên cố, đến năm 1886 chùa có một đợt trùng tu lớn, sáp nhập miếu Quan Thánh phía sau nên diện tích rộng ra. Chùa được quản lý bởi 5 ban tế tự của cộng đồng người Hoa trong khu vực: Tiều, Quảng, Hẹ, Phúc Kiến và Hải Nam, sau ban Hải Nam được sáp nhập vào ban Tiều nên còn 4 ban. Cho đến hiện tại chùa chỉ còn 3 ban tế tự.
Chùa có tổng cộng 55 hoành phi, 22 cặp câu đối cổ và 1 sắc phong. Chúng tôi chọn 5 cặp câu cổ để giới thiệu
Câu đối
1. Súc địa[6] phi kỳ từ hàng địch tận phong đào hiểm,
Hồi thiên hữu lực huệ kiếm tỏa vi nhật nguyệt quang.
(Tân Tỵ niên, Mạnh đông, cát nhật)
縮地非奇慈航滌盡風濤險
回天有力慧劍鎖為日月光
(辛巳年孟冬吉日)
Rút ngắn cõi đất (đối với Bà) chẳng lạ, con thuyền từ gột sạch phong ba hiểm trở,
Bay ngược về trời (đối với Bà) là chuyện trong tầm tay, cây gươm trí che mờ ánh nhật nguyệt.
(Ngày lành, đầu đông năm Tân Tỵ 1881)
2.Đại đức phối thiên khánh thử nhật cảnh vận trùng tân dân giai thỏa đỗ
(Quang Tự thập tam niên, Đinh Hợi đông nguyệt cát đán)
Lệnh nghi xưng hậu hỷ tha niên thánh công quảng bị hải bất dương ba
大德配天慶此日景運重新民皆妥堵 (光緒十三年丁亥冬月吉旦)
令儀稱后喜他年聖功廣被海不揚波
Đức lớn hợp với trời, vui sao ngày này, khắp nơi lại như mới, dân làng vui đua chen
(Sáng ngày lành, tháng mùa đông năm Quang Tự thứ 13, Đinh Hợi 1887)
Nghi khí xưng thánh mẫu, mừng thay năm ấy, ơn thánh trùm khắp nơi, biển chẳng hề dậy sóng.
3. Thủy đức phối thiên hải quốc từ hàng phổ tế
(Giáp Thân niên Mạnh Đông cát nhật)
Mẫu nghi xưng hậu tang du[7] trở đậu trùng quang.
水德配天海國慈航普濟 (甲申年孟冬吉日)
母儀稱后桑榆俎豆重光
Đức lớn hợp với trời, nơi biển lớn làm thuyền từ cứu trợ
(Ngày lành, đầu đông Giáp Thân 1884)
Nghi khí xưng thánh mẫu, cúng tế thường niên không ngơi dứt
4. Hải tĩnh ba điềm cộng ngưỡng thần quang phổ chiếu
Dân an vật phụ hàm triêm đức bị vô tư
海靜波恬共仰神光普照
民安物阜含霑德被無私
Biển yên ổn sóng bình lặng cùng ngưỡng vọng sự che chở của thần,
Người an lành vật sinh sôi đều nhờ ân đức chẳng phân biệt của thần.
5. Thánh mẫu hiển Bồ Điền đức chu hoàn vũ,
Từ hàng an hải quốc trạch nhuận sinh dân
聖母顯莆田德周寰宇
慈航安海國澤潤生民
Thánh mẫu hiển linh chốn Bồ Điền, đức bao trùm vũ trụ,
Thuyền từ làm yên biển rộng, ân cả tưới tẩm dân lành.
3. Đình thần Vĩnh Phước
Đình thần Vĩnh Phước còn gọi là Đình Gạo, một trong những ngôi đình có mặt sớm nhất ở Sa Đéc, nằm trên đường Trần Hưng Đạo[8]. Lúc mới thành lập, đây chỉ là một ngôi đình nhỏ thờ thần hoàng bổn cảnh . Về sau, đình sáp nhập chung với đình thờ quan Thượng đẳng Quận công Tống Phước Hòa[9].
Hiện nay đình có diện tích 1673 m2, lần trùng tu quan trọng nhất vào năm 1904. Từ đó đình trải qua nhiều lần trùng tu lớn nhỏ, nhưng tựu trung kiến trúc vẫn còn giữ nét cổ kính, trang nghiêm.
Đình Vĩnh Phước có 12 cặp câu đối, 6 sắc phong, 24 hoành phi. Trên trần còn có hình vẽ các tích truyện Tàu.
3.1. Câu đối: 5 cặp câu đối cổ theo kết cấu: “Vĩnh…”, “Phước…”
1. Vĩnh hộ quốc gia công thần uy đức trọng,
Phước thi xã tắc bản cảnh vật dân phong.
永護國家功臣威德重
福施 社稷本境物民豐
Mãi bảo hộ quốc gia, đức ân của bậc công thần to lớn,
Làm điều phước vì xã tắc, người và vật chốn này được phong nhiêu.
2. Vĩnh miếu đối thiên trưởng hương lý quy mô vạn cổ,
Phước ân thi địa lợi nhân dân phú túc thiên thu.
永廟對天長鄉里規模萬古
福恩施地利人民富足千秋
Miếu lớn vươn cao lên trời, làng xã phát triển đến muôn đời
Làm điều phước lợi khắp cõi đất, nhân dân giàu có ngàn năm.
3. Vĩnh bảo lê dân vũ thuận phong điều âu ca thịnh đức
Phước tuy bản cảnh thu thưởng xuân tự miễn niệm linh uy
永保黎民雨順風調謳歌盛德
福綏本境秋賞春祀緬念靈威
Mãi bảo hộ dân đen mưa hòa gió thuận, ngợi ca thời thịnh đức,
Phước đức khắp xóm làng sống đời ấm no chan hòa, mãi nhớ ơn thần linh.
4. Vĩnh đức chiêm mông vũ tiến văn bệ thừa vạn tải,
Phước nhơn đôn hóa thượng hòa hạ mục cảm thiên niên.
永德澹蒙武進文陛承萬載
福仁敦化上和下睦感千年
Đức cả thấm nhuận che trùm, văn võ đều hưng thịnh, nối nghiệp vạn năm.
Phước nhân đôn hậu giáo hóa, trên dưới thảy thuận hòa, mãi cảm đến ngàn đời.
5. Vĩnh sáng lạc cảnh cải thiện dân sinh bá nghiệp thịnh
Phước tạo xã tắc chấn hưng gia viên thiên hộ vượng
永創樂境改善民生百業盛
福造社稷振興家園千戶旺
Mãi sáng tạo nên cảnh vui, cải thiện trăm nghề của bá tánh được hưng thịnh,
Phước lành tạo nên xã tắc, chấn hưng ngàn nhà của nhân dân đều phát triển.
3.2. Sắc thần
“Sắc Cai cơ quản Đông Khẩu đạo Đặc tiến phụ quốc Nhân Hòa hầu, kinh sự tiên triều, nẫm trước thanh tích, hiện hữu xã dân phụng tự, kim quang thiệu hồng đồ, nghi long hiển hiệu, khả gia phong Quảng Ân Thực Đức Trung đẳng thần. Nhưng chuẩn hứa Vĩnh An huyện, Vĩnh Phước thôn. Y cựu phụ sự thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Cố sắc
Minh Mạng tam niên cửu nguyệt nhị thập tứ nhật”
勅該奇管東口道特進輔國仁和候,經事先朝,稔著聲績,現有社民奉祀,金光紹鴻圖,宜隆顯號,可加封廣恩植德中等神。仍准許永安縣,永德村。依舊奉事神其相祐保我黎民。故勅
明命三年九月二十四日
“Sắc cho vị Cai cơ coi quản đạo Đông Khẩu là Nhân Hòa hầu, đã từng phụng sự tiên triều, tích lũy nhiều chiến công, để cho dân trong xã thờ tự. Nên làm vẻ vang nối tiếp cơ đồ lớn của tổ tiên, xa nghĩ đến ơn che chở xứng đáng với danh hiệu to lớn, hiển hách của thần, đáng gia phong cho danh hiệu Quảng Ân Thực Đức Trung đẳng thần. Chuẩn cho trông coi thôn Vĩnh Phước, huyện Vĩnh An. Cứ theo đó bảo bọc che chở cho dân của ta.
Nay sắc cho.
Ngày 24 tháng 9 năm Minh Mạng thứ 3”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1997.
2. Trần Văn Chánh, Tự điển Hán Việt, Nxb. Từ điển Bách Khoa, 2013.
2. Nguyễn Khắc Thuần: Thế thứ các triều vua Việt Nam, Nxb. Giáo dục, 2001.
3. Một số tư liệu khảo sát thực tế ở Chùa Phước Hưng, chùa Thiên Hậu và Đình Vĩnh Phước, TP. Sa Đéc.
[1] Cửa Nam: cõi Ta Bà còn có tên gọi là Nam Thiện Bội châu
[2] Trời Tây: Tây Phương Cực Lạc, quốc độ của Phật A Di Đà, ở đây có thể đồng nhất với các khái niệm Niết Bàn, giải thoát
[3] Đây là liễn đối của người Hoa
[4] Tứ Thánh: tức tứ thánh quả, từ sơ quả cho đến tứ quả, gồm: Tư đà hoàn, Tư đa hàm, A na hàm và A la hán. Lục phàm: Trời ,Người, A tula, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh
[5] Thạnh Hoa và Lạc Hoa cùng được tôn tạo và cúng dường trong một ngày
[6] Thuật rút ngắn đại địa của Phí Trường Phòng
[7] Tang du: cảnh già, trở đậu: đồ tế hay tế lễ, ý cả vế nói là sự cúng tế sẽ không bị tuyệt dứt
[8] Chưa có địa chỉ cụ thể, xưa đình thuộc thôn Vĩnh Phước, thị xã Sa Đéc. Cho đến khi Sa Đéc trở thành thành phố, dân quanh đây vẫn quen gọi đình Vĩnh Phước, thôn Vĩnh Phước
[9] là thuộc hạ của chúa Nguyễn Phúc Thuần, có nhiều công lao trong cuộc chiến với Tây Sơn, sau tự sát bảo vệ khí tiết. Trước đây, Gia Long cho thờ ông ở Huế, và có miếu thờ riêng (chưa rõ nơi nào )đến năm 1910 vì hư hại nên mới di dời về đình này. Tuy chỉ được Minh Mạng phong là Trung đẳng thần nhưng dân làng tín yêu gọi ông là Thượng đẳng.
(Phan Nguyễn Kiến Nam, In trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN)