Cái tên ứng nghiệm:
Tăng
sĩ chánh tông Lâm Tế, đời thứ bốn mươi, tục họ Lê, tên Doãn, người huyện Châu
Thành (Sa Đéc), gia đình nông dân chơn chất, bản tính ít nói hiền lành, được
tất cả bà con chòm xóm biệt nhãn, gọi bằng cái tên trìu mến “chú tiểu rạch ông
Yên”. Có ai ngờ cái danh xưng đặc trưng đó lại dự báo về một tiền trình to tát
“sải cánh chim bằng”.
Đồng chơn nhập đạo:
Mới
lên mười tuổi, Hòa thượng đã có lòng thoát tục, thường cùng với người lớn lân
la đến ngôi chùa làng lễ Phật nghe kinh. Nhân một ngày nọ bất chợt và thấm ý
hai câu bắt vần dung dị:
“Ở thế gian
nhiều việc thị phi,
Vào cửa Phật
từ bi hỷ xả”.
Hòa
thượng tâm sự với các bạn đồng trang lứa: “Tôi rất muốn đi tu”. Sau này mới
biết được rằng, theo Ngài, hai câu đó hay vì cắt nghĩa được cái rắc rối của
cuộc đời, cái thảnh thơi của đạo, lại dạy người ta biết phải làm gì để được
thảnh thơi.
Năm
15 tuổi, được phép cha mẹ, người cầu xin và được cho thế phát xuất gia nơi Hòa
thượng Chánh Quả, trụ trì chùa Kim Huê (Chùa Bông), ngôi chùa lớn có tiếng ở
tỉnh lúc bấy giờ.
Năm
21 tuổi, thọ cụ túc giới với pháp danh Huệ Hòa, pháp tự Chơn Giảng. Trong ngót
40 năm học kinh hành đạo, dưới sự dìu dắt của vị cao đức tọa chủ Kim Huê đạo
tràng, về tự độ Hòa thượng tinh tấn phụng trì tịnh giới, chuyên tu tịnh nghiệp;
về độ tha, Hòa thượng giảng kinh dạy luật, truyền giới không biết mệt mỏi.
Giảng dạy thường xuyên liên tục các bộ: Trường Hàng, Sa di Luật giải, Địa Tạng,
Long Thơ v.v….
Truyền
thọ qui giới cho hàng trăm cận sự nam, nữ, mở và dự hàng chục giới đàn tiếp dẫn
Tăng Ni. Thu nhận và tài bồi nhiều thế hệ Tăng sĩ, trong đó lớp già nêu cao đạo
hạnh theo hướng “viễn ly thế gian siêu xuất thế gian”, lớp trẻ chiếm lĩnh vị
trí tiền phong trong trào lưu nhập thế, theo hướng “đạo Phật đi vào cuộc đời”.
Sau
khi thọ đại giới, mỗi năm Hòa thượng đều dấn thân sống trải ba tháng an cư kiết
hạ. Khóa hạ đánh dấu 34 tuổi đạo tại Giác Nguyên, Khánh Hội, Sài Gòn. Còn cái
ngoại hiệu “Chú Giáo” được nhiều người xưng tụng biểu hiện đúng vai trò thường
trực người đứng trong hầu hết đàn truyền giới “Giáo Thọ Yết Ma”.
Hai điều tâm đắc:
Trong
các buổi “nghe kinh” do Hòa thượng phụ trách, Ngài một mực tuyên dương giới
luật và khuyến khích niệm Phật. Hòa thượng thường nói: “Đi tu quí hồ giải
thoát, mà tu đốn hay tu tiệm đều tùy duyên nương theo lý hoặc sự. Tùy duyên nhưng
không được phá giới, vì giới là nền tảng bất biến của chứng ngộ, chứng ngộ một
phần, giải thoát một phần”.
Hòa
thượng còn nói: “Hầu hết chúng sanh đều chướng thâm huệ thiển, do đó pháp môn
niệm Phật nương tướng kiến tánh là thích hợp nhất để chuyển hóa nghiệp cảm
duyên khởi thành pháp giới duyên khởi, mà chỗ tuyệt đỉnh là Sự Sự Vô Ngại Pháp
Giới”.
Trụ pháp vương gia trì Như Lai tạng:
Từ
1948 đảm nhận chức trụ trì do Hòa thượng bổn sư tín nhiệm trao lại. Từ đây, Hòa
thượng càng trí lực trau dồi phạm hạnh, giáo dưỡng đào tạo Tăng tài. Không
những chu toàn hai nhiệm vụ rộng lớn bao quát “trụ pháp vương gia, trì Như Lai
tạng”, Ngài còn cúc cung tận tụy hầu hạ báo đáp ân sự, ưu ái, ân cần chăm sóc
đùm bọc dẫn dắt đàn hậu tấn.
An tường thị tịch:
Ngày
19 tháng 6 năm Bính Thân 1956, sau một cơn bệnh nhẹ và sau khi được đưa từ
trường hạ Sài Gòn về bổn tự Kim Huê tại Sa Đéc, Hòa thượng nhẹ nhàng từ giã cõi
đời mộng huyễn, an nhiên tự tại.
Đối
với Hòa thượng, mọi sự tiếc thương của đệ tử đều không bằng nêu gương thân giáo
hy hữu gồm trong bốn chữ “giới hạnh cẩn nghiêm”, bằng cách tuân thủ thanh qui,
nghiêm trì giới luật, thúc liễm thân tâm, tu hành chơn chánh, có chứng có ngộ
để thực sự lợi lạc quần sanh.
Hậu học đạo
tràng Kim Huê sưu tập