Ngài xuất thân trong gia đình truyền thống Phật giáo. Thân sinh là cụ Ông Nguyễn Văn Sử và hiền mẫu là cụ Bà Nguyễn Thị Phố.
Vốn sinh trong gia đình trung lưu trí thức, kính tin Tam Bảo, đây cũng là cụ duyên tốt cho đạo hạnh sau này của Ngài. Anh em trong nhà sáu người, bốn người anh em trai và hai người chị em gái. Ngài Là anh cả và đều đặt biệt là sáu anh em thì trong đó hết 3 người xuất gia :
Túc duyên dường đã lâu đời,
Nhân gian nương tạm chờ thời xuất gia,
Quyết tâm vượt thoát ái hà;
Đoạn vòng sinh tử xuyên qua Niết bàn.
Nhân gian nương tạm chờ thời xuất gia,
Quyết tâm vượt thoát ái hà;
Đoạn vòng sinh tử xuyên qua Niết bàn.
Thực vậy; ngay khi tuổi đời còn xuân mộng, Ngài sớm quyết tâm rửa sạch bụi trần vương, xả bỏ những đam mê thế tình vụng dại, trở gót gần nương nẻo Bồ đề, định hướng đời mình bằng chân giác đạo.
Năm Ất Dậu (1985) niên hiệu Hàm Nghi năm thứ 2, vừa tròn 6 tuổi, được song thân cho phép, Ngài đến Tổ đình Khải Phước Nguyên (Cây số 9, Quốc lộ 80, nay thuộc xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Bây giờ Tổ Như Khả hiệu Chân Truyền đang tiếp Tăng độ chúng, khi Ngài đến đảnh lễ, Tổ hoan hỷ hứa khả đồng thời thu nạp làm đệ tử. Sau đó thế độ cho Ngài và ban pháp danh Hồng Thiện hiệu Bửu Phước.
Không bao lâu; khi hoàn thành tâm nguyện, Ngài trở về dìu dắt hai em trai của mình, cùng đến yết kiến Hòa thượng Bổn sư xin quy y thế phát xuất gia cùng nhau tu học. Và ban pháp danh cho người em trai thứ năm là Hồng Trí hiệu Bửu Quang, còn em trai út pháp danh Hồng Thạnh hiệu Bửu Tín.
Dù sống trong một ngôi chùa làng quê hẻo lánh, nhưng với trí thức sâu rộng, luôn đi trước thời đại của thầy Bổn sư đã toát ra là một trang xuất cách; bởi lẽ người thế tục gia cần phải có đủ đôi cánh trí thức và đạo đức mới có thể vươn tới một vùng trời sâu rộng. Do đó, sợ dừng chân một chỗ sẽ mai một ý chí xuất trần. Tổ Như Khả đã lén thầy Bổn sư của mình (Tổ sư Minh Thông hiệu Hải Huệ) dùng thuyền chèo đưa ba chú tiểu ở Bổn Tự Khải Phước Nguyên và rước luôn hai chú tiểu ở chùa Tổ (Bửu Lâm Cổ Tự) Rạch Cái Bèo, làng Phong Nẩm, Cao Lãnh (nay thuộc xã Bình Hàng Trung, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Sau đó giăng bườm chèo thẳng lên Tổ đình Long Thạnh, Gia Định (nay đường Bà Hom, thuộc huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh) để gởi 5 chú tiểu ở đây tu học.
Nơi đây Tổ Minh Hòa hiệu Hoan Hỷ là một danh Tăng kiêm ưu giới đức tiếp nhận năm huynh đệ là Bửu Chung, Trung Nghĩa, Bửu Quang, Bửu Tín và Ngài đều tỏ ra hết sức tinh cần và dốc lòng tu học, được Tổ thường xuyên khen ngợi.
Riêng Ngài đạo hạnh càng hiển lộ, không chỉ thông tuệ nội điển mà ngoại khoa như Tứ Thơ, Ngũ Kinh của Khổng, Trang, Lão, Mạnh đều mẫn cán, đến như Chiêm tinh, Thần số, Dịch lý toàn thư, Y phương diệu dược, Ngài đều nghiên cứu đến mức lão luyện. Có thể nói; những bậc danh sư đồng học đương thời đều tán thán.
Năm Kỷ Hợi ngày mồng 07 tháng 02 (18-03-1899), niên hiệu Thành Thái năm thứ 11, Ngài được Bổn sư cho đăng đàn thọ Cụ túc giới tại Tổ đình Thiên Phước, Xã Tân Bình, Tổng An Phú, Huyện Long Xuyên, Tỉnh An Giang (nay thuộc xã Hội An Đông, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Đàn giới này Tổ sư Minh Thông hiệu Hải Huệ đương vi đường đầu Hòa thượng, Thiền sư Tôn An đương vi Yết Ma A Xà lê, Thiền sư Từ Chơn đương vi Giáo Thọ A Xà Lê, Thiền sư Như Khả hiệu Chân Truyền đương vi đệ nhất Tôn Chứng sư.
Năm 21 tuổi Ngài được Hòa thượng Bổn sư bổ nhiệm về Trụ trì Tân Phước Tự, Rạch Dược, nay thuộc xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
Sau những tháng ngày thanh tâm trì niệm, tấn tu đạo nghiệp, một mặt củng cố đạo tràng phát dương quang đại, mặt khác kết hợp các pháp lữ gần xa hoằng truyền Phật pháp. Công hạnh của Ngài nức tiếng khắp nơi, nhiều thiện nhân đến quy y, công quả tu bồi phúc đức, trong đó không ít người được Ngài cảm hóa, phấn chí đầu Phật xuất gia. Điểm đáng nói là đức hóa của Ngài lan tỏa rộng khắp, rất nhiều đàn việt phát tâm hỷ cúng phẩm vật, tịnh tài kể cả những điền sản lớn như ruộng đất, trong đó có phần của một vị quan ở Lái Thêu, Bình Dương hỷ cúng 10 heta ngang chùa, tả ngạn Cai Bường, có sự chứng minh của Hòa thượng Từ Văn, Tổ đình Hội Khánh, Thủ Dầu Một, Bình Dương... Chính ngôi Tổ đình Phước Ân, hữu ngạn Cai Bường, làng Vĩnh Thạnh, nay thuộc huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, do đại Hương Cả Nguyễn Đăng Phụng phát tâm hỷ cúng đất mà Ngài chính là người Khai sơn vào năm Quý Mão (1903) vẫn tồn tại đến nay.
Nơi đây Ngài mở phòng Tuệ Tỉnh đường, xem mạch kê toa bốc thuốc Từ thiện để kịp cứu giúp bà con khốn khó xa gần, và mở trường dạy chữ Hán Nôm, Đông y Nam dược, giảng dạy Giáo lý Phật đà, khắc bản gỗ ấn bản niệm Phật chấm công cứ để khuyến khích lớp bình dân niệm Phật cầu vãng sinh, lập chương trình khuyến nông góp phần phát triển kinh tế dịa phương và chùa có nhiều ruộng đất giúp cho nông dân nghèo có đất canh tác, thu tô để tự túc kinh tế hương hỏa cho Tự viện.Với những công hạnh đức hóa ấy, đến hiện nay bá tánh thập phương vẫn còn tâm niệm mãi :
Quý hóa thay ! Bậc thượng nhân,
Lập chùa tạo PHƯỚC thi ÂN cứu người;
Danh Y đại đức sáng ngời;
Thiền Tăng diệu dược đạo đời khắc ghi.
Lập chùa tạo PHƯỚC thi ÂN cứu người;
Danh Y đại đức sáng ngời;
Thiền Tăng diệu dược đạo đời khắc ghi.
Năm Kỷ mùi (1919) niên hiệu Khải Định năm thứ 4, sau khi hoàn thành hiếu sự, lo tròn Tang lễ báo đức Tôn sư ở Tổ đình Khải Phước Nguyên tạm xong, Ngài bổ nhiệm đệ tử Thủ tọa Biển Trụ trì Tổ đình kế thế. Sau đó cũng vào năm này Đại giới đàn Minh Phước tại Tổ đình Phước Hưng, Ngài được Giáo thọ Vạn Hiển cung thỉnh về Sa Đéc, đương vi Tuyên Luật sư Yết ma A xà lê, Đàn giới này Ngài Từ Vân đương vi Đường đầu Hòa thượng, Ngài Vạn Hiển đương vi Giáo thọ A xà lê.
Năm Nhâm Tuất (1922) niên hiệu Đại giới đàn tại Sắc tứ Tam Bảo tự, Rạch Giá do Ngài làm Chánh Chủ kỳ, Thiền sư Như Nhãn hiệu Từ Phong chứng minh, Thiền Sư Chí Thiền đương vi Đàn đầu Hòa thượng, Luật sư Chánh Quả đương vi Giáo thọ A Xà lê.
Năm Ất Sửu (1925) niên hiệu Bảo Đại năm thứ nhất, Ngài bổ nhiệm vị đệ tử là Thượng toạ Nhật Đạt hiệu Thiền Lý về kế thế Trụ trì Tân Phước Tự, Rạch Dược, (nay thuộc xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Bổ nhiệm đệ tử Thiền Phương trụ trì Phổ Quang Tự (nay thuộc Phường Bình Khánh, Thành phố Long Xuyên).
Năm Đinh Mão (1927) niên hiệu Bảo Đại năm thứ 3, Đại giới đàn Minh Phước tổ chức tại Tổ đình Phước Hưng, Sa Đéc, Ngài được cung thỉnh đương vi Yết Ma A xà lê.
Năm Canh Ngọ (1930) niên hiệu Bảo Đại năm thứ 6, Đại giới đàn Nguyên Hòa tổ chức tại Tổ đình Tân Long, Cao Lãnh, Ngài được cung thỉnh đương vi Yết Ma A xà lê.
Vào khoảng thập niên 20 của những đầu thế kỷ 20, ngay khi lịch sử chấn hưng Phật giáo châu Á. Tại Việt Nam, người khởi xướng phong trào tiên phuông là Thiền sư Như Trí hiệu Khánh Hòa, Thiền sư Huệ Quang đang từng bước đột phá, kêu gọi Tăng, Ni và trí thức Phật tử trong cả nước hưởng ứng phong trào chấn hưng lại nền giáo dục đạo đức Phật giáo nước nhà.
Đáp lời kêu gọi đó, Ngài cùng các đồng môn pháp lữ như Hòa thượng Đạt Thới hiệu Chánh Thành, Tổ đình Vạn An, Rạch Cái Xếp, Nha Mân. Hòa thượng Như Kim hiệu Bửu Chung, Tổ đình Phước Long, Rạch Ông Yên, Nha Mân. Hòa thượng Luật sư Chánh Quả, Tổ đình Kim Huê, Sa Đéc.Thiền sư Chí Thiền, Sắc tứ Tam Bảo, Rạch Giá... đều là những bậc danh Tăng long tượng của miền Tây Nam bộ, đứng ra vận động khai mở các Trường Gia giáo đào tạo Tăng tài và vô hình trung Sa Đéc là cái nôi của Phật giáo vùng Đồng bằng sông Cửu Long (mỗi lần họp mặt thảo kế hoạch giáo dục đào tạo & chương trình giảng dạy đều chọn Phước Ân Tự là nơi kết họp nhân tài và phát động mỗi Tự viện đều tự túc kinh tế), kể từ đó một lần nữa được tôn vinh Sa Đéc là đất Phật, cũng chính nơi đây đã sản sinh ra những bậc danh Tăng sau này như Hòa Thượng Trí Tịnh, Hòa Thượng Huệ Hưng... Ni trưởng Như Hoa, Ni trưởng Chí Kiên...
Qua những gương hạnh quý báu đó của đời Ngài chính là một bài pháp sống động đầy sức thuyết phục, không chỉ dừng lại cho chúng ta hôm nay, mà vẫn lưu mãi cho hàng hậu thế chung soi đến muôn đời.
Hóa duyên Ta bà mãn rồi;
Thâu thần tịch diệt phản hồi Chân Như.
Thâu thần tịch diệt phản hồi Chân Như.
Quán tường tận duyên Ta bà quả mãn, Ngài phó chúc môn đồ đệ tử Phật sự chu toàn và truyền đệ tử Nhật Kỉnh hiệu Thiền Chí Thượng Tọa kế thế Tông phong Trụ trì Tổ đình Phước Ân.
Năm Mậu Tý, vào giờ Dậu, mồng 10 tháng 02 ÂL (20/3/1948) Ngài an nhiên thu thần tịch diệt.
Trụ thế 69 Xuân, Giới lạp 49 Hạ, Trụ trì 48 Đông.
Bá tánh bổn đạo văn nghệ sĩ trí thức tôn kính truy tiến công đức Ngài có nhiều phương tiện thiện xảo để nhiếp phục ngoại đạo và hoằng pháp lợi sanh qua các bài thơ Phật, Nho, Lão, Y thuật, Thiên văn địa lý, Quẻ Dịch (Bốc phệ) .. . thể loại thất ngôn bát cú bằng Hán văn như sau:
Phật ngôn nhứt niệm đắc siêu sanh,
Bửu tháp lung linh trúc kiến thành,
Xá lợi huýnh thời hồng nhật chiếu;
Mâu Ni tàn xứ bạch vân anh.
Hôn cù huệ cự chiêu sa giới,
Khổ hải từ hàn độ chúng sanh,
Yểu yểu Tây quy An dưỡng quốc;
Thiên thu phạm sát vĩnh thùy danh.
Tảo ngộ luân hồi ấu xuất gia,
Man man khổ hải thoát trùng ba,
Thiên ban xảo kế hà trù hoạch;
Nhứt cá chơn thành tự trát ma.
Ngũ uẩn giai không ly hỏa trạch,
Lục trần bất nhiểm tựu ngưu xa,
Danh trường lợi tẩu vô tâm luyến;
Lâm mạng chung thời thượng bửu tòa.
Khiêu xuất phàn lung mãnh tỉnh nhân,
Kiền thành lễ Phật tự ân cần,
Oai quyền lung lộc đô vi giả;
Nhẫn nại từ bi nãi thị chân.
Mỗi bả huệ đăng tầm giác lộ,
Tương thừa bửu phiệt độ mê tân,
Tam quy Ngũ giới thừa tông chỉ;
Tinh tấn nhất sanh bất nhiễm trần.
Phú quý vinh hoa nhược mộng hồn,
Trượng phu cứu kiến Phật vi tôn,
Xả thân cầu đạo hành thiền hạnh;
Tu kỷ lợi tha học phạm tông.
Bối ngụy tùng chơn quy thiện đạo,
Khử tà quy chánh nhập từ môn,
Hữu vi chi pháp chung giai thoại;
Nhứt điểm huyền quan vĩnh đắc tồn.
Chí Tôn Vô thượng Phật đàn tràng,
Tham ngộ Thiền tâm đắc tịnh an,
Đóa tỵ mê đồ huy huệ cự;
Viễn ly khổ hải phiếm từ hàng.
Lục thông cụ hữu quy Thiên Trúc,
Tứ tướng giai không xuất thế gian,
Lao lục hồng trần hà đắc hữu;
Tiêu diêu tự tại Phật liên bang.
Tu trì Phật đạo quý kiên tâm,
Vô thượng vô biên hựu thậm thân,
Phần nhiệt đàn hương xưng Địa Tạng;
Phi tuyên bối diệp niệm Quan Âm.
Pháp Vương thùy huấn thông hà nhỉ,
Giáo chủ lưu truyền quán cổ kim,
Tịch diệt hư vô vô thống chữ;
Tức Tâm tức Phật đạo đương tầm.
Thế gian tứ khổ kỷ nhơn tri,
Đặc đạt phương năng hối ngộ chi,
Lục độ ân cần vô thiểu giải;
Tứ đề miễn lệ bất vun khuy.
Kim cang bất hoại thiên thu tại,
Bửu tháp trường tồn vạn cổ thùy,
Viễn cận đàn na giai ngưỡng mộ;
Bổn sư xuất thế dĩ tây qui .
Nho tinh phú bá cập thi thiên,
Nghiên cứu ân cần dạ thiểu miên,
Mã sử lãm tri kim cổ sự;
Lân kinh tụng hiểu Thánh Hiền ngôn.
Các kinh tiển tận đương tầm đạo,
Vân vụ phi khai tất đổ thiên,
Nhứt vĩ quán chi Tăng Tử dị;
Cao kiên tiền hậu cổ kim truyền.
Đạo nguyên phiêu đản nhược hư không,
Kê Thố điều hòa cập Hổ Long,
Sơn thủy ngao du vô hệ phược;
Yên hà hứng vịnh xuất phàn lung.
Thiêu đơn luyện hống đa kỳ thuật,
Thể dược an lư hữu dị công,
Nhiệm ý tung hoành thiên địa ngoại;
Hà dung câu cuộc Ngũ Hành trung.
Y phương ảm luyện tối tường tinh,
Ẩn phục cao quăng nhị thụ kinh,
Quít tỉnh phong hòa chi nãi phóng;
Hạnh lâm xuân năng thiệt tài sanh.
Xuất Xà diệu thuật đa thùy dự,
Di liễu thần công tối trứ danh,
Dược biện quân thần minh tá sứ;
Trường sinh chung nhủ kỷ thiên bình.
Lý thấu Âm Dương Lịch số quyền,
Tầm Long điểm Huyệt mích Ngưu miên,
Hồ đăng a hộ siêu quần Thánh;
Trước sách tòng sanh cái thế Hiền.
Lý thị Hạo, Tâm chiêu nhị thể,
Tôn gia, Hiếu hạnh chí tam Tiên,
Nhơn gian Phong thủy tuy nhiên hữu;
Âm chất tương phò thả thính thiên.
Bốc phệ Tiên tri vị phát cơ,
Phục, Văn, Châu, Khổng bí truyền thơ,
Oánh Cừ, Dư Vệ thiên thu Tổ;
Quỷ Cốc di lưu vạn cổ Sư.
Động tịnh đương tu chiêm Quái thể,
Trinh dâm tất định biện hào từ,
Kiết hung hưu cựu hào vô mậu;
Dĩ vãng đương lai ngữ bất hư.
Đương thời Ngài còn sinh tiền thì Bổn tự Phước Ân đã đáp ứng nhu cầu Phật hóa nhân gian, đánh dấu một thời hưng thịnh vì thế nên trong Ban chức sự chùa phải cử 3 vị Thủ tọa, 3 vị Thư ký, 3 vị Tri khách để phục vụ . . .Và người đời kính trọng thường tôn xưng Ngài Hòa thượng Cai Bường và có tài tiên tri hậu vận nên Sắc Tứ Tam Bảo, Rạch Giá lưu truyền:
Thuở còn Hòa thượng Nguyễn Văn Đồng (1),
Tăng chúng theo Thầy học đạo rất đông,
Cảnh cũ người xưa nay đã khác;
Ai mà cải được luật thiên công.
Tháp xây ở giữa sai thiên lý,
Tuy đã hoàn thành chịu để không,
Hòa thượng Cai Bường (2) tiên đoán trước;
Hậu lai thật đúng những lời Ông (3).
Cho hay thế sự thường thay đổi,
Bởi luật tuần huờn của tạo công,
Thời tiết bốn mùa luôn chuyển biến;
Vật người trời đất cũng hòa đồng.
Luân hồi nhân quả đâu sai chạy,
Tài, sắc, lợi, danh luống nhọc nhằn,
Hỡi khách bến mê lần thức tỉnh;
Gắng công niệm Phật thoát qua vòng.
Thuở còn Hòa thượng Nguyễn Văn Đồng (1),
Tăng chúng theo Thầy học đạo rất đông,
Cảnh cũ người xưa nay đã khác;
Ai mà cải được luật thiên công.
Tháp xây ở giữa sai thiên lý,
Tuy đã hoàn thành chịu để không,
Hòa thượng Cai Bường (2) tiên đoán trước;
Hậu lai thật đúng những lời Ông (3).
Cho hay thế sự thường thay đổi,
Bởi luật tuần huờn của tạo công,
Thời tiết bốn mùa luôn chuyển biến;
Vật người trời đất cũng hòa đồng.
Luân hồi nhân quả đâu sai chạy,
Tài, sắc, lợi, danh luống nhọc nhằn,
Hỡi khách bến mê lần thức tỉnh;
Gắng công niệm Phật thoát qua vòng.
Sinh tiền Ngài biên soạn & dịch các tác phẩm:
- KINH GIẢI THÂM MẬT dịch Quốc ngữ Hán nôm.
- ẨM BĂNG THẤT dịch Quốc ngữ Hán nôm.
- THIÊN ĐỊA KHÍ VẬN ĐỒ do Ngài biên soạn Quốc ngữ Hán nôm.
- ĐÔNG Y NAM DƯỢC do Ngài biên soạn Quốc ngữ Hán nôm.
nhưng năm Đinh Hợi (1947), Tổ đình Khải Phước Nguyên bị hỏa thiêu nên các dịch phẩm, trước tác biên soạn và kho kinh sách của Ngài cũng đồng hy sinh vì Tổ quốc do tiêu thổ kháng chiến và Pháp khí bằng đồng thau thì hóa thân vũ khí để chống giặc thực dân Pháp. Tổ đình Phước Ân là nơi đào tạo nhiều thế hệ dấn thân vào đường cứu quốc, là nơi cung cấp quân lương cho chiến sĩ cách mạng.
Ghi chú :
(1). – Tục danh của Hòa thượng Thích Trí Thiền, Trụ trì Sắc tứ Tam Bảo, Rạch Giá.
(2). – Bá tánh Bổn đạo vì sự tôn kính Ngài Thích Bửu Phước Khai sơn Chùa Phước Ân, Rạch Cai Bường, xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, nên thường lấy địa danh để tôn danh Ngài là Hòa thượng Cai Bường.
(3). – Hòa thượng Thích Trí Thiền đã bí mật hiến tài sản bất động sản của Sắc tứ Tam Bảo, Rạch Giá cho Xứ ủy Nam Kỳ hoạt động Cách mạng vào đầu thập niên 40 để làm Cơ sở chống thực dân Pháp, sao khi bị phát hiện, nhà cầm quyền Pháp đày Ngài ra Côn Đảo, và Ngài an trú trong Thiền định cho đến Viên tịch tại ngục thất Côn Đảo.
Pháp điệt Thích Vân Phong
Kính biên soạn
Kính biên soạn