Hòa thượng Tịnh Sự, thế
danh là Võ Văn Đang, sinh năm Quí Sửu (1913), trong một gia đình có truyền
thống Nho giáo, tại một vùng quê miền Nam, xã Hòa Long, huyện Lai Vung, tỉnh
Đồng Tháp. Thân phụ Ngài là cụ Võ Văn Tỏ, thân mẫu là cụ Trần Thị Thông.
Năm 7 tuổi Ngài đã học
chữ Nho. Rất thông minh, Ngài được người đương thời gọi là “Thần đồng Lê Quí
Đôn”. Do túc duyên sẵn có từ nhiều đời, đến năm 12 tuổi Ngài xuất gia và thọ
giới Sa Di tại chùa Bửu Hưng (Sa Đéc). Thấy Ngài quá thông minh nên Bổn sư đặt
pháp danh là Thích Huệ Lực.
Chùa Bửu Hưng, nơi ngày xuất gia |
Năm 20 tuổi Ngài thọ
giới Tỳ kheo tại chùa Kim Huê-Sa Đéc. Đến năm 25 tuổi Ngài được bổ nhiệm về trụ
trì tại chùa Phước Định - Chợ Lách. Năm 30 tuổi Ngài trụ trì chùa Viên
Giác-Vĩnh Long. Năm 35 tuổi duyên lành đối với Phật giáo Nam Tông đã chín mùi,
Ngài được du học tại Chùa Tháp Campuchia, thọ giới theo Phật giáo Nam Tông tại
chùa Kùm Pung (Treyloko) ở Trà Pét.
Từ Campuchia Ngài có
thiện duyên du học tại Thái Lan, thọ giới Tỳ kheo tại chùa Pakknam Bangkok.
Ngài được thầy tế độ ban pháp danh là Tịnh Sự (Santakicco) vì thấy Ngài chuyên
tâm hành đạo. Tại xứ Phật giáo Thái Lan này, Ngài đã thực hành hạnh đầu đà, tu
thiền Minh Sát và học A Tỳ Đàm (Abhidhamma) trong bảy năm. Rời Thái Lan về Việt
Nam ,
Ngài trở lại trụ trì chùa Viên Giác - Vĩnh Long. Ngài bắt đầu mở mang truyền bá
giáo pháp Nguyên Thủy. Ngài dạy Pháp học A Tỳ Đàm Pàli (Abhidhamma) và Pháp
hành Tứ Niệm Xứ.
Muốn cho môn học
Abhidhamma được truyền bá rộng rãi nên vào năm 59 tuổi Ngài về trụ trì chùa
Siêu Lý - Sài Gòn. Mở trường chuyên dạy về môn Abhidhamma và dịch các bộ sách
Giáo Khoa Phật Học như Vi Diệu Pháp Sơ Cấp, Trung Cấp và Chánh Tạng Abhidhamma.
Ngài đã đào tạo nhiều
thế hệ học trò Vi Diệu Pháp. Các thế hệ đệ tử này đã kế thừa sự nghiệp của Ngài
truyền bá môn Abhidhamma khắp nơi. Những thế hệ đệ tử Vi Diệu Pháp đầu tiên
hiện nay còn những vị tiêu biểu như Đại Đức Giác Chánh, cư sĩ Vĩnh Phúc, cư sĩ
Trần Quỳnh Hương đã có công đức duy trì và phát triển môn học Abhidhamma.
Về phương diện đào tạo
Tăng tài, Ngài đã từng làm thầy Tế độ truyền giới xuất gia cho hàng trăm Sa Di,
Tỳ Kheo. Họ đã tiếp nối được sự nghiệp truyền bá giáo pháp của Ngài một cách
tốt đẹp.
Không những chỉ đào tạo
Tăng tài mà Ngài còn xây dựng rất nhiều cơ sở tự viện: chùa Viên Giác (Vĩnh
Long), chùa Long Linh, chùa Giác Phước, chùa Pháp Độ, chùa Trúc Lâm, chùa Siêu
Lý, chùa Thiền Quang 1, chùa Thiền Quang 2.
Điểm nổi bật nhất trong
sự nghiệp hoằng pháp của Hòa thượng là Ngài đã dịch hoàn thành Tạng luận Pàli
tức Tạng Abhidhamma gồm:
1) Bộ Pháp Tụ (Dhammasangani).
2) Bộ Phân Tích (Vibhanga).
3) Bộ Chất Ngữ (Dhà kàthà).
4) Bộ Nhân Chế Định (PuggalaPanntti).
5) Bộ Ngữ Tông (Kàthà Vatthu).
6) Bộ Song Đối (Yamakam).
7) Bộ Phát Trí (Patthana).
Đó là phần chánh tạng
Abhidhamma. Sau đây là những dịch phẩm giáo khoa Adhidhamma được giảng dạy tại
các trường Phật Học Thái Lan.
1) Vi Diệu Pháp Sơ Cấp.
2) Vi Diệu Pháp Trung Cấp.
3) Vi Diệu Pháp Cao Cấp.
4) Thanh Tịnh Đạo.
5) Diệu Pháp Lý Hợp.
Sự nghiệp đạo pháp của
Ngài vô cùng to lớn. Nhất là Ngài đã dành hết đời mình để phiên dịch trọn Tạng
Vi Diệu Pháp (Luận Tạng PàLi). Qua công hạnh này, Ngài là một ngôi sao mà càng
nhìn chúng ta càng thấy sáng hơn.
Đêm mùng 6 tháng 5 năm
Giáp Tý, Ngài thọ bệnh. Nửa đêm hôm ấy Ngài cho gọi Chư Tăng để ban di huấn và
gởi lời sám hối đến Tăng chúng gần xa. Rồi Ngài an trú chánh niệm và viên tịch
lúc 6 giờ 15' sáng ngày 7 tháng 5 năm Giáp Tý (tức 05-06-1984), hưởng thọ 72
tuổi, hành đạo 52 năm.
Trước khi viên tịch Ngài
đã giảng về sự khổ, rồi mỉm cười tắt hơi thở cuối cùng. Ngài ra đi nhưng sự
nghiệp đạo pháp của Ngài vẫn còn ở lại với hậu tấn ngưỡng cầu giải thoát khổ
đau, để hằng an vui tự tại nơi Niết Bàn tịch tịnh.