1/ THỜI
THƠ ẤU
Đại lão Hòa thượng thuộc dòng thiền
Lâm Tế Chánh tông đời thứ 41, pháp danh Không Tâm, pháp hiệu Thiện Tâm. Tục
danh Trần Văn Lộc sinh ngày 3 tháng 4 năm 1928 (13/02/Mậu Thìn) tại làng Tân Thạnh,
xã Tân Hòa, Vĩnh Long giáp ranh Đồng Tháp.
Song thân của Ngài là cụ ông Trần
Văn Tươi, hiền mẫu là cụ bà Lê Thị Ngởi. Cụ ông và Cụ bà đã hạ sinh được 06 người
con, Ngài là con thứ.
Ngài vốn sinh ra trong một gia
đình trung lưu, theo truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam Bảo. Thuở ấu
thơ, bắt đầu vào học đường trường làng, Ngài thường theo song thân đến chùa Phước
Long, chùa Long Hòa, để tụng kinh niệm Phật, công quả, thấm nhuần suối nguồn từ
bi. Năm 12 tuổi, Ngài đã thuộc làu nhị thời Công phu triêu tịch, thiện duyên
khai phát, đất Bồ đề được vun bồi, thêm một Hoa Bát Nhã tô điểm chốn tòng lâm,
được Trưởng lão Hòa thượng Viên Ngộ hiệu Thiện Hòa (Bác ruột) cho thế phát xuất
gia tại chùa Long Hòa, nay thuộc xã Tân Hội, Thành phố Vĩnh Long.
Năm
16 tuổi, Ngài thụ giới Sa Di và làm đệ tử của Trưởng lão Hòa thượng Huệ Hòa-Chơn Giảng (1898-1956), Tổ đình Kim Huê, Sa
Đéc và được ban pháp danh Không Tâm, nối pháp mạch dòng Thiền Lâm Tế Chánh tông
đời thứ 41. Sau đó, Ngài tiếp tục chương trình thế học với những bằng cấp loại
giỏi, nên được mời luyện thi cho các lớp đệ thất, đệ lục.
Năm
20 tuổi, Ngài đăng đàn thụ Cụ túc giới tại Tổ đình Kim Huê, Sa Đéc, do Trưởng
lão Hòa thượng Luật sư Chánh Quả-Ngộ Giác 1880-1956) đương vi Đàn đầu Hòa thượng.
2/ THỜI HOẰNG PHÁP
Sau khi trở thành tân Tỳ kheo,
Ngài tham học với Trưởng lão Hòa thượng Khánh Anh-Chơn Quý (1895-1961), Tổ đình
Phước Hậu, Trà Ôn. Đồng thời Ngài phụ trách lớp gia giáo tại Bổn tự Kim Huê. Để
hòa hợp chúng trong việc truyền thống tu học, Ngài luôn luôn hiện diện tại các
trường Hương những tỉnh lân cận.
Ngài được Hòa thượng Bổn sư cho dự
các trường Tuyển Phật khắp trong lục tỉnh, với phẩm vị Điển lễ, Giáo thọ.
Năm 22 tuổi, Ngài du phương tham
học các Phật học đường Ấn Quang, Liên Hải, Phước Hậu. . .
Đương thời, những pháp hữu đồng học
với Ngài như, các vị Thích Minh Cảnh, Thích Trí Không, Thích Thiện Tánh, Thích
Thiện Thông . . . Trong thời gian này Ngài tham gia giảng dạy tại các Phật học
đường đào tạo Tăng tài ở Thành phố Sài Gòn Gia Định.
Năm 40 tuổi, Ngài dừng chân vùng
đất Nha Mân mầu mỡ, sông nước hữu tình, cây lành trái ngọt quanh năm, nhưng lại
bất an bởi tử thần luôn rình rập mọi người khi đi ngang khu vực này. Để trấn an
dân chúng làng quê, Ngài dừng chân nơi đây, dựng am tranh vách đất để tiện bề
tu niệm và kết duyên Bồ đề quyến thuộc Phật pháp. Với hình ảnh vị chân tu thoát
tục ở một nơi đầy tử khí, được sự cảm mến của quần chúng nhân dân địa phương,
có vị Tín chủ phát tâm cúng hiến cho Ngài một mảnh đất, và kiến tạo ngôi Niệm
Phật đường Chánh Giác, nơi che chở tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân thời ly
loạn.
Qua những bước thăng trầm của sự
thế đổi thay, năm tháng bôn ba từng vùng quê hẻo lánh, hòa quyện với việc mang
ánh sáng Từ bi trí tuệ vào đời. Ngài khai sơn ngôi Chánh Giác Tự bằng những giọt
mồ hôi của những năm tháng miệt mài không mệt mỏi. Mọi người thường thấy Ngài
ngày hai buổi với chiếc nón lá rộng vành, cọc kệch trên chiếc xe đạp cũ kỹ, vì
tương lai của Phật giáo trong sự nghiệp giáo dục đào tạo Tăng tài, từng bước chân
an lạc quang lâm đến các trường Phật học tại Sa Đéc như Phước Hưng, Kim Huê,
Phước Huệ, Long An ...
Năm 44 tuổi, Ngài nhận 20 đệ tử xuất gia tu học. Đến ngày thống nhất đất
nước, non sông liền một dãy, vì nhu cầu của thời đại mới, Ngài đã cho đàn con chấp
cánh vào đời xây dựng xã hội tương lai, hiện nay đã trở thành những Y sĩ, Kỹ
sư, Cán bộ công chức, những công dân gương mẫu. Bên cạnh Ngài chỉ còn lại những
Pháp hữu thâm niên cao lão đã lần lượt quảy gót quy Tây. Riêng Ngài vẫn kiên tâm bền chí:
Hoài
bão vốn ngàn đời trưởng dưỡng,
Tâm
lành từ muôn kiếp cưu mang,
Gieo
mầm sống cho bồ đề xanh lá;
Tạo
vườn hoa bát nhã ngát hương từ...
Trong sự
nghiệp hoằng pháp lợi sanh Ngài luôn vững tiến, với những chức vụ và bổn phận mới,
trong hai thời kỳ xây dựng và chuyển tiếp. Ngài nỗ lực không ngừng trong sự
nghiệp giáo dục đào tạo tăng tài “Truyền đăng tục diệm, báo Phật ân đức” tại
các đạo tràng: Phước Ân, Bửu Lâm, Bửu Hưng, Phước Thạnh, Tân Long, Thới Long, Hội
Khánh, Thiên Phước, Long Thiền, Phước Huệ, Long An, Hải Huệ, Kim Huê, Thiền
Lâm, Phước Thạnh, Tam Bảo, và các tỉnh Sóc Trăng – Cà Mau…
Dấu chân hoằng hóa của Ngài in đậm
trên khắp nẻo đường cát bụi miền Tây Nam bộ. Mỗi bước chân an lạc của
Ngài, nơi đó sen hồng nở ngát hương trong lòng người con Phật.
Những bộ Kinh Ngài chọn giảng dạy, đều mang đậm
chất trải nghiệm trong sự nghiệp tự thân tu hành như: Khuyến Phát Bồ Đề Tâm
Văn, Tứ Thập Nhị Chương, Nhị Khóa Hiệp Giải, Quy Sơn Cảnh Sách, Phật học Dị giải,
Bát thức Quy củ vv… Tăng ni chúng học được Ngài giáo dưỡng tại Sa Đéc tỉnh Đồng
Tháp, nhiều người đã thành tựu có học hàm học vị là cử nhân, tiến sĩ, hiện đang
nắm giữ những vị trí quan trọng trong giáo hội như cũng như kế thừa sự nghiệp
giáo dục của Ngài như: Thích Thiện Năng, Thích Thiện Mỹ, Thích Minh Thuần,
Thích Lệ Thọ, Thích Huệ Tâm, Thích Trí Hải, Thích Chơn Tâm, Thích Chơn Trí,
Thích Lệ Nhựt, Thích nữ Như Tâm, Thích nữ Như Thanh, Thích Nữ Như Từ vv…
Qua sự cống hiến như những cánh chim không mỏi,
Ngài vẫn tâm niệm câu Lục tự Di Đà với đầu ngữ “Vạn duyên phóng xả, nhứt đao nhị
đoạn” làm chỉ nam, y cứ cốt tủy bài kinh Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn do Ngài giảng
dạy thuở nào,.... Đến tuổi lục tuần tùy duyên theo sự sắp xếp của Giáo Hội Ngài
khiêm tốn ngồi chứng minh, để cùng mọi người đưa PG tỉnh nhà đi lên. Cũng vào
những năm này, Ngài xuất gia cho 4 nữ đệ tử, qua tu học được khai tâm mở trí,
có 3 người có đạo tràng ở 3 nơi trù phú.
Tuổi hạc niên cao, Ngài luôn sống tịnh lạc, sự
vô tư của Ngài luôn tùy duyên thanh nhàn “cư trần lạc đạo”. Khi Tăng, Ni, Phật
tử đến tham vấn cầu học, Ngài rất chân tình từ tốn nhưng hùng hồn trong huấn thị,
phát ngôn của Ngài mang đậm dấu ấn trong thể nghiệm giáo lý Phật đà. Tâm Ngài
thanh thản như ngọn thu phong thoảng trong không gian mênh mông vô tận...
Vào thời điểm ngoài thất thập cổ lai hy, được
thỉnh làm cố vấn cho Giáo hội tỉnh nhà, Ngài hoan hỷ mỉm cười từ tốn rằng: Kẻ
đi trước rước người đi sau, mới gọi là “Phật nhật tăng huy, pháp luân thường
chuyển”. Ngài xem việc giáo dục đào tạo và bồi dưỡng tăng chúng, trong hai lĩnh
vực tu- học như là dưỡng chất, là niềm vui tinh thần của mình. Cho đến tuổi đã
xế chiều mà Ngài vẫn đăng đàn truyền giới vì sự nghiệp kế thừa của đàn hậu tấn.
Trong sự nghiệp Hành chính Giáo hội
Ngài đã trải qua các chức vụ:
- Năm 1964, Chánh Thơ ký GHPGVNTN
tỉnh Sađéc – Vĩnh Long
- Năm 1972, Đặc ủy Văn hóa – Phụ
tá Tăng sự PGVNTN tỉnh Sađéc
- Năm 1984, Ủy viên Văn Hóa
GHPGVN tỉnh Đồng Tháp
- Năm 1982-1985, Ủy viên Nghi Lễ
GHPGVN tỉnh Đồng Tháp
Năm 1998 Ngài được Tỉnh hội Phật
giáo Việt Nam tỉnh Đồng Tháp tôn vinh lên hàng Giáo phẩm Chứng minh Tỉnh hội,
Ngài cũng là Thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương GHPGVN cho đến khi Viên
tịch.
Trong đời sống, Ngài rất bình dị, luôn
thể hiện câu: “Tri túc thường lạc”. Ngài thực sự hiền hòa đáng là một vị
chân Tăng trưởng lão Hòa thượng.
3/ THỜI VIÊN TỊCH.
Nhạn quá trường không, ảnh trầm hàn thủy, nhạn
vô lưu tích chi ý, Thủy vô lưu ảnh chi tâm...
Thuận
thế vô thường, Ngài giã từ cõi tạm cát bụi phù du, xả huyễn thân, thể nhập Chân
thường vào lúc 14giờ30 phút, ngày 01 tháng 9 năm 2017 (nhằm ngày 11/7/Đinh Dậu)
tại chùa Chánh Giác, Xã Tân Nhuận Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Trụ
thế 90 Xuân, 70 Hạ lạp, với cao danh Hòa thượng Trưởng lão.
Sinh tiền
Ngài sưu tầm và biên soạn: Kinh A Di Đà Nghĩa và 36 bài Sám hay; Xuất bản
năm 1961, Liên Hoàn Sám nguyện; Xuất bản năm 1961. . .
Sự ra đi của Ngài là một mất mát lớn của GHPGVN
nói chung, và tỉnh Giáo hội PG Đồng Tháp nói riêng, cũng như toàn thể Tăng Ni
phật tử vô vàn kính tiếc một bậc Thầy trọn đời hiến thân cho sự nghiệp giáo dục
đạo đức Phật Giáo, kính nguyện giác linh Ngài sớm hồi nhập ta bà quảng độ quần
sanh.
Trụ thế 90 Xuân, 70 Hạ lạp, với
cao danh Hòa thượng Trưởng lão.
Nam mô Chánh Giác đường thượng Từ
Lâm Tế chánh tông, tứ thập nhất thế pháp húy Không Tâm, hiệu Thiện Tâm, Trần
công Giác linh Trưởng lão Hòa thượng.